Chuyển đến nội dung chính

Kinh lạc -­ Vẫn là một bí mật chưa thể giải mã

Trong Đông y có một hệ lý luận rất quan trọng gọi là "Học thuyết Kinh lạc". Đọc lại y thư cổ có thể nhận thấy, "Kinh lạc" đã được nói đến từ rất sớm. Cổ nhân nhận định, trong cơ thể con người có một hệ thống những đường vận hành của "khí huyết" giống như một mạng lưới gọi là "Kinh lạc", nối liền nội tạng với "tứ chi bách hài", tất cả các bộ phận của cơ thể. 


Đã là thầy thuốc, ắt phải thông hiểu về Kinh lạc. Như vậy mới hiểu được sinh lí và bệnh lí, mới biết cách chẩn đoán và chữa trị bệnh tật. Do đó người xưa mới thường nhắc nhở: "Làm thầy thuốc mà không biết Kinh lạc, thì giống như người đi trong đêm mà không có đèn (Y nhi bất tri Kinh lạc, do nhân dạ hành vô chúc)".

Suốt quá trình lịch sử từ hàng ngàn năm, lý luận về Kinh lạc đã không ngừng được hoàn chỉnh, bổ sung bằng kinh nghiệm thực tế và nội dung ngày càng phong phú. Đối với Kinh lạc, từ xưa y gia đều tin tưởng sâu sắc, chẳng chút hoài nghi. Thế nhưng, từ khi văn hóa và khoa học phương Tây du nhập vào phương Đông, thì Học thuyết Kinh lạc bắt đầu bị hoài nghi.

Khoa học nghĩa là phân tích và thực chứng. Sinh lý học nói tới Hệ tuần hoàn hay Hệ thần kinh, thì khi giải phẫu cơ thể sẽ có thể thấy rõ mồn một. Trong khi đó, nói tới vị trí của Kinh lạc, cổ thư chỉ mô tả một cách mơ hồ là: "Nằm ở phần thịt (Phân nhục chi gian)". Một câu hỏi tất nhiên phải đặt ra là: "Những đường Kinh lạc trên thực tế ở vị trí nào trong cơ thể?".

Câu hỏi thật đơn giản nhưng trả lời lại không dễ dàng. Từ thế kỷ trước, các nhà khoa học đã bỏ ra rất nhiều công sức để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi này. Hết thế hệ này qua thế hệ khác, các nhà khoa học đã kiên trì cầm dao mổ, "đào xới" khắp các ngõ ngách trong cơ thể, nhưng chỉ tìm thấy những thứ mà Sinh lý học đã "nhìn thấy" hàng trăm năm qua. Với kính hiển vi điện tử, các thiết bị điện tử, số hóa hiện đại, giải phẫu học đã có thể thấy rõ tất cả mọi thứ, không bỏ sót một chi tiết nào, thế nhưng vẫn chưa thể tìm thấy cái "hệ thống màng lưới nối liền các bộ phận trong cơ thể" như cổ thư viết. Do đó ngày càng có nhiều người hoài nghi cho rằng trên thực tế không có thứ mà Đông y gọi là Kinh lạc.

Phủ định Kinh lạc ­ cũng có nghĩa là phủ định châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, khí công, ... Vì những phương pháp đó được xây dựng trên cơ sở Học thuyết Kinh lạc. Thế nhưng trên thực tế đó là những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu, thậm chí một số trường hợp còn có thể mang lại kết quả thần kỳ. Điều này đã khiến rất nhiều nhà nghiên cứu không chịu bỏ cuộc.

Từ giữa thế kỷ trước, các nghiên cứu về Kinh lạc bắt đầu gặt hái được thành quả quan trọng. Trong những năm 50, các nhà khoa học Nhật đã phát hiện một hiện tượng lạ mà sau này được đặt tên là "Tuần kinh cảm truyền". Đó là khi kích thích vào một số điểm mẫn cảm trên da, ở đó sẽ xuất hiện cảm giác đặc biệt, như tê, tức, đau, ... lan truyền từ từ theo quỹ đạo, gần như trùng hợp với những đường Kinh mạch trong Hệ Kinh lạc. Hiện tượng truyền cảm giác đặc biệt theo đường kinh mạch nói trên được gọi là "Tuần kinh cảm truyền". Đó cũng là căn cứ chứng tỏ Kinh lạc là một thứ tồn tại khách quan, chứ không phải là sản phẩm hư cấu của y gia thời xưa.

Các nghiên cứu tiếp theo cho thấy "Tuần kinh cảm truyền" là hiện tượng rất phức tạp. Trước hết "Cảm giác đặc biệt" thông thường là hỗn hợp của 3 thứ cảm giác "mỏi", "trướng" và "tê". Nhưng cũng có thể là "nóng", "mát", "vã mồ hôi" hay như "điện giật". Nói chung, kích thích khác nhau sẽ dẫn tới cảm giác khác nhau. Khi gặp phải vết mổ, vết sẹo, khối u, ... sự truyền cảm sẽ bị gián đoạn. Ấn mạnh tay vào huyệt, tiêm nước muối sinh lý, hoặc kích thích lên da, ... thì quá trình cảm truyền cũng sẽ dừng lại. Nếu kích thích vào một huyệt ở đoạn giữa Kinh mạch, cảm giác sẽ đồng thời truyền theo 2 hướng: Từ huyệt được kích thích tới điểm đầu và tới điểm cuối của đường Kinh mạch. Đường cảm truyền nói chung trùng hợp với các Kinh mạch, nhưng cũng có biến dị nhất định. Không hiếm trường hợp cảm giác đang di chuyển theo một Kinh mạch, khi tới gần ổ bệnh bỗng nhiên đổi hướng: Rời khỏi đường kinh mà tiến tới vị trí ổ bệnh. Điều này có ý nghĩa lâm sàng rất lớn, vì khi châm cứu nếu xuất hiện hiện tượng đổi hướng như vậy, thì kết quả trị liệu thường sẽ rất tốt.

Sau khi tính khách quan của Kinh lạc được khẳng định nhờ phát hiện "Tuần kinh cảm truyền", cùng với những bức ảnh Kinh lạc chụp được bằng kỹ thuật điện quang, kỹ thuật hồng ngoại, chất phóng xạ, ... trong những thập niên cuối thế kỷ 20, nghiên cứu hiện đại về Kinh lạc đã trở thành một lĩnh vực hết sức sôi động, tập trung chủ yếu vào vấn đề khám phá bản chất Kinh lạc. Và đó là vấn đề có ý nghĩa lớn lao không chỉ đối với Đông y học, mà cả với toàn bộ Khoa học về sự sống.
Các nghiên cứu hiện đại về bản chất Kinh lạc được tiến hành trên rất nhiều phương diện và các nhà khoa học đã đưa ra rất nhiều giả thuyết khác nhau. Có thể chia thành 3 trường phái chính, đại thể như sau:

1. Kinh lạc là hệ thống cấu trúc đã biết với những chức năng đã biết:

Quan điểm này tương đối phổ biến trong giới khoa học ở phương Tây. Theo đó, Kinh lạc được cấu thành bởi thần kinh, mạch máu và mạch bạch huyết, trong đó thần kinh là thành phần cơ bản. Giả thuyết này cho phép giải thích khá nhiều hiện tượng liên quan tới Kinh lạc. Ví dụ, "Tuần kinh cảm truyền" cũng như các hiện tượng Kinh lạc khác, đều có liên quan tới cảm giác ­ nghĩa là liên quan tới Thần kinh trung ương; Khi xuất hiện "Tuần kinh cảm truyền", trạng thái chức năng của Thần kinh ngoại vi cũng có biến đổi, ... tuy nhiên quỹ đạo của "Tuần kinh cảm truyền" lại không trùng hợp với sự phân bố của thần kinh; Tốc độ "Tuần kinh cảm truyền" lại chậm hơn tốc độ dẫn truyền thần kinh, ...

Như vậy, giả thuyết này chưa cho phép giả thích được tất cả các hiện tượng liên quan đến hoạt động Kinh lạc.

2. Kinh lạc là được tạo thành bởi những cấu trúc chưa biết nhưng có những chức năng đã biết:

Tiêu biểu cho phái này là giả thuyết về "Hệ thống cân bằng thứ ba". Sinh lý học hiện đại đã biết trong cơ thể có 2 hệ thống điều tiết sự cân bằng, đó là Hệ thần kinh và Hệ nội tiết. Hệ thần kinh là hệ điều tiết tốc độ nhanh, với tốc độ dẫn truyền tín hiệu từ 1m­100m/s. Hệ nội tiết hoạt động với tốc độ chậm, với tốc độ điều tiết tính tới hàng phút. Kinh lạc có chức năng duy trì cân bằng giữa phần ngoài cơ thể (thể biểu) và các cơ quan nội tạng, tốc độ truyền cảm giác theo Kinh lạc từ 1cm­10cm/s, chậm hơn tín hiệu thần kinh và nhanh hơn tín hiệu nội tiết, nên được gọi là "Hệ thống cân bằng thứ ba".

Tuy nhiên, giả thuyết này thiếu căn cứ về hình trạng học, nên đến nay vẫn chưa được thừa nhận.

3. Kinh lạc là hệ thống bao gồm những cấu trúc đã biết và chưa biết, với những chức năng đã biết và chưa biết:

Kết quả nghiên cứu những năm gần đây cho thấy, đây là hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng nhất. Một mặt cho phép giải thích tương đối đầy đủ các hiện tượng liên quan tới hoạt động của Kinh lạc. Mặt khác, có thể giúp khoa học phát hiện thêm những chức năng mới của một số hệ thống đã biết như Hệ thần kinh, Hệ nội tiết, ...

Nhìn tổng quát, những kết quả nghiên cứu thu được đã chứng thực: Kinh lạc là hệ thống có thật, tồn tại khách quan trong cơ thể, có vai trò rất quan trọng trong điều tiết các quá trình chuyển hóa vật chất, vận chuyển năng lượng và thông tin.

Sau hơn nửa thế kỷ tiến hành nghiên cứu, khoa học đã nắm được một số quy luật quan trọng liên quan tới cấu trúc và chức năng của Kinh lạc, nhưng vẫn chưa có được những kết quả có tính đột phá. Cùng với thời gian, phương pháp và phương tiện nghiên cứu sẽ ngày càng tinh vi và hoàn thiện, chắc chắn khoa học sẽ khám phát thêm nhiều điều mới mở. Còn hiện tại, Kinh lạc vẫn là một bí mật thiên cổ chưa thể giải mã.

Trích nguồn: Thuốc vườn nhà - thuocvuonnha.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Những thói quen nguy hiểm ‘chết người’ khi uống nước

Những thói quen tưởng chừng “vô thưởng, vô phạt” dưới đây lại chính là nguyên nhân khiến sức khỏe của bạn ngày càng "xuống cấp". Uống nước đun đi đun lại nhiều lần Việc đun sôi nước thường xuyên không làm phá hủy các chất độc hại mà làm tăng nồng độ và những thay đổi hoá học không tốt cho sức khoẻ sẽ xảy ra. Trong nước thông thường có chứa hàm lượng nhỏ nitrat và một số kim loại nặng như chì, cadimium… Sau khi nước đun nóng trong thời gian dài, do quá trình thuỷ phân không ngừng bốc hơi, nồng độ nitrat và các kim loại nặng trong nước sẽ tăng lên. Uống nước đun đi đun lại nhiều lần là một trong những thói quen cần loại bỏ Chẳng hạn như canxi, gây ra sự hình thành của sỏi trong cơ thể, trở thành có hại, nếu nước đó được tiêu thụ thường xuyên. Ngoài ra việc đun lại nước thường xuyên còn làm tăng một số chất độc hại như: Thạch tín, Nitrat, Flo. Như vậy, chúng ta không nên uống nước đun lại nhiều lần. Điều này là không tốt cho sức khỏe.

SỬ DỤNG HỢP LÝ THUỐC KHÁNG SINH

Từ kháng sinh trong chuyên luận này được dùng để chỉ những chất có tác dụng trên vi khuẩn (Antibacterial drugs). Về nguồn gốc, nhóm này bao gồm không chỉ những chất có nguồn gốc từ vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn (ví dụ: các penicilin, các cephalosporin, các aminoglycosid...) như định nghĩa trước kia mà cả những chất có nguồn gốc hoàn toàn do tổng hợp hóa dược (cotrimoxazol, fluoroquinolon...). Thuốc kháng sinh là nhóm thuốc có vai trò rất quan trọng trong chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là ở những nước có tỷ lệ bệnh nhiễm khuẩn cao như Việt Nam. Tuy nhiên đây lại là một nhóm thuốc bị lạm dụng nhiều nhất. Hậu quả làm gia tăng tỷ lệ kháng kháng sinh và mất đi những thuốc có chỉ số Hiệu quả/An toàn cao trong điều trị nhiễm khuẩn trong khi số kháng sinh mới được đưa thêm vào thị trường rất ít. Cách tốt nhất để giảm tỷ lệ kháng kháng sinh là tuân thủ các nguyên tắc sử dụng kháng sinh hợp lý.

SỬ DỤNG HỢP LÝ THUỐC KHÁNG ĐỘNG KINH

Đại cương Động kinh là một hội chứng bệnh lý của não có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra có đặc điểm là sự tái diễn của các cơn kích thích tế bào thần kinh ở não gây hoạt động phóng lực kịch phát được thể hiện trên lâm sàng và qua một số xét nghiệm cận lâm sàng đặc hiệu. Khoảng 1% dân số thế giới mắc động kinh. Hàng năm ước có 20 - 25 trường hợp mới phát hiện trên 100 000 người và số người bệnh có ít nhất một cơn động kinh trong cuộc đời là 5%. Tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Liên hội quốc tế chống động kinh (ILAE) cho biết hiện ước tính có 50 triệu người bệnh động kinh trên thế giới trong đó 80% thuộc các nước đang phát triển. Ở các nước phát triển tỷ lệ mới phát hiện hàng năm là 24 - 53 đối với 100 000 người, còn ở các nước đang phát triển là 49,3 - 190 đối với 100 000 người.

Những vị trí kiêng kị động thổ năm 2016

Động thổ xây nhà là một việc làm cực kì quan trọng có ảnh hưởng to lớn tới tiền tài, vận mệnh cũng như cuộc sống của bạn sau này. Chỉ cần chọn sai ngày, sai hướng rất dễ dàng mang họa vào thân. Trong năm 2016,nếu ai có ý định xây nhà thì tuyệt đối không được động thổ vào những vị trí sau: Tam sát, Thái tuế, Hắc vị, Hoàng vị.

SỬ DỤNG AN TOÀN THUỐC GIẢM ĐAU

Đại cương Đau là cảm nhận của một cá thể khi bản thân cơ thể bị va chạm với một tác nhân gây đau; tác nhân đó có thể là một yếu tố kích thích gây tổn thương trực tiếp hoặc gián tiếp, từ bên ngoài hoặc bên trong cơ thể, trong thời gian ngắn hoặc dài. Ở con người, đau là triệu chứng sớm nhất báo hiệu bệnh tật nhưng cũng còn là triệu chứng tồn lưu trong và sau quá trình bệnh tật. Triệu chứng đau gồm hai yếu tố cấu thành chủ yếu là cơ thể (thần kinh) và tâm lý (cảm xúc). Hiệp hội quốc tế nghiên cứu đau (ISAP, 1979) đã định nghĩa: “đau là một trải nghiệm cảm giác và cảm xúc khó chịu kết hợp với một tổn thương của mô hiện tại hoặc sẽ xảy ra, hoặc được mô tả bằng các ngôn từ về tổn thương đó”.

Thực phẩm ăn vào tóc sẽ không rụng nữa và sẽ mọc như nấm sau mưa

Đây là những thực phẩm ăn vào tóc sẽ không rụng nữa và sẽ mọc như nấm sau mưa.

SỬ DỤNG HỢP LÝ CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ BỆNH HEN PHẾ QUẢN

Đặc điểm cơ bản của bệnh hen phế quản Hen phế quản (HPQ) là hội chứng viêm mạn tính đường hô hấp, có sự tham gia của nhiều loại tế bào gây viêm cùng với các kích thích khác làm tăng phản ứng phế quản, gây nên tình trạng co thắt, phù nề, tăng xuất tiết phế quản, làm tắc nghẽn phế quản. Biểu hiện lâm sàng của HPQ là cơn khó thở khò khè, chủ yếu là khó thở ra; những biểu hiện này có thể hồi phục tự nhiên hoặc do dùng thuốc.

9 loại thực phẩm dễ tìm giúp cho thận khỏe

Chế độ ăn uống đóng vai trò lớn ở chức năng thận mà hầu hết mọi người không thể nhận ra. Cải thiện chức năng thận sẽ giúp cân bằng huyết áp, điều tiết axit trong cơ thể, làm giảm khả năng giữ nước, cải thiện sự bài tiết các chất thải, ngăn ngừa sỏi thận, chống nhiễm trùng...  Dưới đây là 9 loại thực phẩm sẽ giúp cho thận khỏe: 

SỬ DỤNG THUỐC TRONG THỜI KỲ MANG THAI VÀ CHO CON BÚ

Thời kỳ mang thai Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa thời kỳ mang thai bình thường là thời gian trong khoảng 38 tới 42 tuần kể từ khi trứng được thụ tinh. Thai kỳ thường được chia làm ba giai đoạn theo mỗi 3 tháng và ảnh hưởng của thuốc đến thai nhi khác nhau ở mỗi giai đoạn.